Trong tâm thức của người
Việt Nam, quần đảo Hoàng Sa gần gũi tựa như cái sân liền với ngôi nhà là dải
đất hình chữ S, chỉ bước chân ra là tới. Hoàng Sa ghi dấu trong ký ức bao thế
hệ người Việt, là nơi thấm đẫm máu xương, mồ hôi và nước mắt của người dân Việt
kiên cường vượt lên đầu sóng ngọn gió để mưu sinh, và khi cần thiết người
Việt cũng đã quyết tử để bảo vệ quần đảo - chủ quyền thiêng liêng của Tổ
quốc.
Khai thác phốt
phát trên đảo Hoàng Sa năm 1940
Hoàng Sa trong ký ức
của người Việt thời xưa
Ký ức của người Việt Nam
thời xưa còn được ghi lại rõ ràng trong sử sách có lẽ chính là nhà bác học Lê
Quý Đôn (1726-1784). Trong sách Phủ Biên Tạp Lục soạn năm 1776, Lê Quý Đôn
cho biết: "Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển.
Ngoài biển, về phía đông bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn,
cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia đi hoặc một ngày, hoặc vài canh giờ
thì đến. Trên núi có chỗ có nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng dài ước hơn
30 dặm, bằng phẳng, rộng lớn, nước trong suốt đáy. Bên cạnh đảo có vô số yến
sào. Các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh
không tránh. Bên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi, to như chiếc
chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục không như ngọc trai, vỏ ốc
có thể đẽo thành tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà. Có ốc xà cừ để
khảm đồ dùng. Lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi
mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là trắng bộng giống đồi mồi mà nhỏ,
vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, có thể muối ăn
được. Có hải sâm, tục gọi là con đồn đột, bơi lội ở bên bãi. Lấy về, dùng vôi
xát qua, bỏ ruột, phơi khô. Lúc ăn thì ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi; nấu
với tôm và thịt lợn càng tốt. Các thuyền ngoại phiên bị bão thường vào đậu ở
đảo này. Trước, họ Nguyễn sai đặt đội Hoàng Sa lấy 70 suất, lấy người xã An
Vĩnh sung vào. Cắt phiên, cứ mỗi năm tháng 2, nhận giấy sai đi, mang lương đủ
ăn 6 tháng. Đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo
ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim, bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu (đắm), như
gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng,
ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ. Đồi mồi, vỏ hải ba,
hải sâm, hạt ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào Cửa Eo đến thành
Phú Xuân nộp”.
Lý Văn Phức, một văn nhân nổi tiếng đời vua Minh Mạng, năm 1832 đi thuyền
sang Philippines
suýt nữa bị mắc cạn ở Hoàng Sa. Ông đã ghi cảm tưởng của mình khi tận mắt
nhìn thấy bãi cát vàng mênh mông trên biển cả ấy trong bài tựa và bài thơ
nhan đề "Vọng Kiến Vạn Lý Trường Sa Tác”. Bài tựa nói rằng: "Vạn Lý
Trường Sa là một dãi cát từ bể nổi lên, phía tây tiếp dương phận trấn Quảng
Ngãi, phía đông giáp dương phận nước Lữ Tống, phía bắc tiếp dương phận các
tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Dằng dặc kéo ngang, không thể lượng đo được. Ấy
là chỗ rất hiểm đệ nhất có tiếng từ xưa đến nay. Tàu thuyền qua đó, thường
thường kiêng dè sự không thấy nó. Ấy vì chân bãi cát ra rất xa. Một khi lầm
thì không thể trở lại. Ngày 14 tháng 5 năm Nhâm Thìn (1832), thuyền rời Quảng
Ngãi, đã vào hải phận trấn Bình Định. Trù tính là không lầm, một đường thẳng
vo, lấy hướng kim Mão-Ất (đông, hơi xế nam) mà tiến. Không dè gió trái, nước
xiết, con thuyền không tiến. Thình lình trưa hôm sau, ngóng trông thấy nó.
Sắc cát lờ mờ, khắp chân trời đều trắng. Tất cả người trên thuyền, trong lòng
bừng bừng, nước mắt rưng rưng. Trên thuyền, ngoảnh hỏi người cầm lái là một
tay lão luyện tây dương, nói rằng: lấy thước Đạc Thiên (lục phân) mà đo thì
may thuyền chưa phạm vào chân bãi cát, còn chuyển buồm kịp. Bèn lấy hướng Kim
Dậu (tây), nhằm Quảng Ngãi mà lùi. May nhờ phúc lớn của triều đình, về đến
cửa bể Thái Cần mà tạm đỗ. Cuối cùng không việc gì”.
Trong lịch sử các gia tộc ở Cù Lao Ré (đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi) còn chép khá
đầy đủ hoạt động của tổ tiên dòng họ vâng lệnh triều đình hàng năm dẫn đội
hùng binh ra các đảo Hoàng Sa. Từ thời các chúa Nguyễn đã cho thành lập đội
Hoàng Sa. Đến đời vua Gia Long, chính sử còn ghi lại rất rõ năm 1815 vua sai
Phạm Quang Ảnh làm Cai đội Hoàng Sa và tuyển các binh phu cùng đi ra Hoàng Sa
và cả Trường Sa thám sát và đo đạc thủy trình. Các tài liệu phổ hệ, sắc
phong, linh vị...viết bằng chữ Hán Nôm trong nhà thờ hậu duệ của họ Phạm nói
đến nhiều người trong họ tộc đi lính Hoàng Sa không trở về. Trong đó có Chánh
suất thủy quân cai đội Phạm Hữu Nhật, người đã cùng với Phạm Quang Ảnh được
Tổ quốc đặt tên cho hai hòn đảo trong quần đảo Hoàng Sa (đảo Hữu Nhật và đảo
Quang Ảnh). Mới đây, dòng họ Đặng ở đảo Lý Sơn đã hiến tặng cho Nhà nước bản
gốc duy nhất Sắc chỉ của vua Minh Mạng phái một đoàn thuyền với 24 lính thủy
ra canh giữ quần đảo Hoàng Sa vào năm Minh Mạng thứ 15, tức năm Giáp Ngọ
(1834). Trong một tờ lệnh có đóng triện của hai vị quan bố chánh và án sát
tỉnh Quảng Ngãi cùng năm Giáp Ngọ (1834) ghi rất rõ những tên tuổi tham gia
hải đội Hoàng Sa đợt này như Đặng Văn Siểm, Dương Văn Định, Võ Văn Hùng, Phạm
Quang Tình, Võ Văn Công, Võ Văn Hùng, Ao Văn Trâm, Trần Văn Kham...Lừng lẫy
nhất là Phú Nhuận Hầu Võ Văn Phú kiêm thủ ngự cửa biển Sa Kỳ và cai đội Hoàng
Sa. Ông Võ Văn Phước hậu duệ đời thứ 16 hiện đang ở Lý Sơn còn ghi nhớ nhiều câu
chuyện kể về cha ông mình can trường cưỡi lên đầu sóng ngọn gió ở Hoàng Sa
bảo vệ vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc. Trên đảo Lý Sơn quê hương của đội
hùng binh Hoàng Sa ngày nay vẫn còn nhiều mộ gió do dân làng lập nên cho
những đứa con của làng hy sinh ở Hoàng Sa từ hàng trăm năm trước. Mỗi lần ra
biển, họ đều đến thắp hương khấn vái và cầu mong linh hồn bất tử của những
thủy binh hải đội Hoàng Sa tung hoành một thuở chở che cho họ vượt qua phong
ba bão táp, gặp may mắn hanh thông trong những chuyến biển dài trên vùng biển
mà máu xương của biết bao thế hệ người Việt Nam đã hòa vào biển cả hàng trăm
năm qua.
Đặc điểm nổi
bật của quần đảo Hoàng Sa
là những đảo
san hô vào loại lớn. Toàn bộ quần đảo
trải trên
một diện tích khoảng 15.000 km vuông trên mặt biển
Hoàng Sa trong ký ức
của người Việt thời nay
Tập san Sử Địa số 29 xuất bản tại Sài Gòn đầu năm 1975 sau khi quần đảo Hoàng
Sa của Việt Nam bị Trung Quốc xâm chiếm bằng vũ lực là một chuyên đề đặc biệt
về Hoàng Sa của Việt Nam. Trong đó có bài của tác giả Trần Thế Đức, ghi chép
lại một vài sự kiện liên quan tới quần đảo Hoàng Sa qua lời tường thuật của
những người trong cuộc. Kể về hoạt động của Trạm Khí tượng Thủy văn Hoàng Sa,
tác giả cho biết các nhân viên khí tượng ở đảo Hoàng Sa mỗi ngày có 8 lần
quan trắc gọi về Sài Gòn qua hệ thống vô tuyến điện siêu tần số. Khi có bão,
quan trắc phải làm và báo cáo hàng giờ. Nhờ đó, sức mạnh và hướng đi của trận
bão được biết rõ và thông báo cho dân chúng, tàu bè, máy bay qua lại trong
vùng. Từ Sài Gòn qua hệ thống viễn thông vùng Đông Nam Á, thế giới biết đến Hoàng
Sa qua ám số 48860 (48 là vùng Đông Nam Á, 860 là Ty Khí tượng Hoàng Sa). Ty
Khí tượng còn kiêm luôn cả Ty Bưu điện, đóng dấu gửi thư từ đảo về đất liền
và ngược lại.
Phân phosphate trên quần đảo Hoàng Sa (Paracels) là một nguồn lợi mà nhiều
nhà kinh doanh chú ý. Năm 1956, ông Lê Văn Cang được chính quyền VNCH cho
phép khai thác phosphate trên quần đảo Hoàng Sa. Năm 1961, Công ty Lê Văn
Cang bắt đầu khai thác, Công ty Hữu Phước được hợp đồng chở phân bón về Sài
Gòn. Từ năm 1960, có thêm Công ty Phân bón Việt Nam của ông Bùi Kiến Thành tham
gia. Sau năm 1970, thị trường phân bón mở rộng nên nhiều công ty khác cũng
chú ý đến nguồn phosphate ở Hoàng Sa. Công ty Kỹ nghệ Phân bón Đại Nam
(KYPHADACO) do ông Đào Nhật Tiến làm chủ, cho biết thành phần phosphate lấy
từ các đảo Hoàng Sa có phẩm chất rất tốt. Ông Tiến còn khám phá ra một tài
nguyên khác ở Hoàng Sa là cát và vỏ sò, vỏ ốc. Cát và vỏ sò, vỏ ốc Hoàng Sa
xay thành bột nung ở nhiệt độ cao được sản phẩm gọi là "cát Hoàng Sa” có
thể trị phèn trong ruộng và trộn với thức ăn gia súc.
Vùng biển quanh quần đảo Hoàng Sa là nơi lui tới của nhiều tàu lạ. Người Việt
vốn quý khách. Khách tới, đi ca nô hay xuồng nhỏ vào đảo là được tiếp niềm
nở. Nhất là những lúc khách gặp cơn hoạn nạn cần được cứu giúp. Chủ và khách
đều vui vẻ. Khách chân thật không có gì đáng e ngại, vì khách thường tới từ
các tàu cá, không có vũ khí, chủ nhà còn được xuống tàu khách tham quan.
Khách có thể lên đảo nghỉ ngơi, tắm nước ngọt, phơi cá, phơi lưới trên đảo,
trao đổi hàng hoá, nước ngọt, rau tươi... Nghỉ ngơi xong, khách lại xuống tàu
nhổ neo ra đi. Tuy nhiên, có một lần khoảng năm 1970, một bọn người không rõ
quốc tịch lên đảo xin nghỉ ngơi, nói tàu đánh cá của họ bị bão. Chủ nhiệt
tình giúp đỡ, cho họ vào tạm trú chân. Các anh lính bỗng chú ý vì họ mang
theo một tấm giấy lớn, mở ra thì nhận ra ngay là bản đồ quần đảo Hoàng Sa
(Paracels). Một anh lính thấy họ cầm bản đồ ngược, liền kêu lên. Người nọ
giật mình, quay bản đồ lại. Thì ra họ biết tiếng Việt. Thế rồi sau này xảy ra
chuyện ngày 19-1-1974.
Một nhân viên
của Trạm Khí tượng Thủy văn Hoàng Sa
trước năm 1974
Trong khi thực hiện loạt bài này, chúng tôi nhận được rất nhiều ý kiến động
viên, khích lệ của độc giả, trong đó có những ý kiến rất tâm huyết, trăn trở
về việc thực hiện sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc. Có độc giả đề nghị nên bắt
đầu bằng việc vinh danh xứng đáng những người con đất Việt đã quên thân mình
để bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Mới đây, ông Nguyễn Thiện, tác giả chương
trình "Dân ta biết sử ta”, đã gửi tới báo Đại Đoàn Kết bức thư tâm huyết
đề nghị "cần vinh danh những người con đất Việt đã hy sinh trong trận
hải chiến bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974”. Vinh danh những
người con đất Việt đã ngã xuống để bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa cũng là một cách
để khắc ghi ký ức Hoàng Sa vào tâm thức dân tộc mãi mãi không phai mờ. Nhìn
nhận sự hy sinh của ông Ngụy Văn Thà – Hạm trưởng tàu Nhật Tảo (HQ10) cùng gần
60 đồng đội khác của ông trong trận quyết tử để bảo vệ Hoàng Sa ngày
19-1-1974, ông Nguyễn Thiện bày tỏ: "Vinh danh những người con đất Việt
hy sinh trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 1974 là minh chứng sâu sắc rằng Tổ quốc
là của mọi con dân nước Việt, là thể hiện sâu sắc sự công bằng với lịch sử,
có tác dụng khuyến khích mạnh mẽ lòng yêu nước và tinh thần sẵn sàng bảo vệ,
xây dựng Tổ quốc, là bước đột phá quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết dân
tộc.”.
Ký ức Hoàng Sa có lẽ sẽ chẳng bao giờ phai nhạt với những con người gắn cả
cuộc đời mình với vùng biển thân thuộc tiếp nối từ nhiều đời trong gia tộc
như "sói biển” Mai Phụng Lưu, ngư dân đảo Lý Sơn, người 4 lần bị Trung
Quốc bắt khi đang đánh cá trên vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam. Sau một thời
gian khánh kiệt không còn khả năng để sắm thuyền và ngư cụ ra khơi, nay ông
vừa được một quỹ hỗ trợ ngư dân cho vay ưu đãi để giúp "sói biển” trở về
ngư trường quen thuộc của cha ông như xưa. Ông Lưu chia sẻ: "Không biết
sao chứ cứ ra tới biển là trong đầu tui cứ nhớ đường tới Hoàng Sa. Có lần tui
chạy về hướng Trường Sa được 180 hải lý rồi tự nhiên tay lái cứ bẻ lên Hoàng
Sa”. Ông Võ Hiển Đạt, người trông coi Âm Linh Tự thờ cúng hương hồn các dân
binh Hoàng Sa nói: "Đối với bà con Lý Sơn, Hoàng Sa y như cái đảo Bé ở
đây. Chỉ bước chân ra là tới. Đó là nhà của dân Lý Sơn từ bao đời nay”. Có lẽ
trong tâm thức của mọi người Việt Nam, quần đảo Hoàng Sa cũng giống
như sân nhà mình, chỉ bước chân ra là tới.
Nhóm PV Biển
Đông
|